Thông tin chung

Tác giả/Author: TS. Nguyễn Công Thành
Ngày phát hành/Issued date: 15/04/2025
Đơn vị phát hành/Issued by: Viện nghiên cứu Hải sản

Nội dung

1) Tên nhiệm vụ: Quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường vùng nuôi trồng thủy sản trên biển tại một số tỉnh trọng điểm (năm 2024)

2) Cấp quản lý: Bộ NN&PTNT

3) Tổ chức chủ trì: Viện nghiên cứu Hải sản

4) Họ và tên chủ nhiệm: TS. Nguyễn Công Thành

5) Thành viên tham gia chính:

ThS. Lưu Ngọc Thiện

ThS. Trần Quang Thư

TS. Lê Tuấn Sơn

ThS. Trương Văn Tuân

KS. Đỗ Thị Tuyết

ThS. Thái Thị Kim Thanh

KS. Nguyễn Minh Đức

KS. Nguyễn Thị Ánh

ThS. Nguyễn Thị Phương Thảo

6) Mục tiêu của nhiệm vụ:

* Mục tiêu chung: Quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường vùng nuôi cá biển tại một số tỉnh trọng điểm nhằm phục vụ hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo hoạt động nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững.

* Mục tiêu cụ thể:

- Quan trắc, đánh giá được hiện trạng, biến động chất lượng môi trường, chủ động giám sát vùng nuôi cá biển tại Quảng Ninh, Hải Phòng và Kiên Giang, từ đó kịp thời đưa ra bản tin thông báo, khuyến cáo kết quả quan trắc môi trường cho người nuôi.

- Kịp thời đưa ra cảnh báo biến động chất lượng môi trường vùng nuôi cá biển phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo và thực tiễn hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy sản hiệu quả, phát triển bền vững.

- Cập nhật thông tin, số liệu vào cơ sở dữ liệu về quan trắc thống nhất từ Trung ương đến địa phương phục vụ cho công tác quản lý, chỉ đạo sản xuất, bảo vệ hệ sinh thái, cũng như công tác nghiên cứu.

7) Kết quả thực hiện:

(1) Trên cơ sở số vùng nuôi biển, thông số và tần suất quan trắc được phê duyệt, nhiệm vụ đã thực hiện được 27 bản tin quan trắc, 7 báo cáo tháng, 02 công văn cảnh báo diễn biến môi trường về kết quả quan trắc, cảnh báo môi trường vùng nuôi biển, hồ sơ của 3 điểm giám sát, 01 báo cáo đột xuất, bộ số liệu và sản phẩm bài hội thảo, đào tạo; kết quả đã kịp thời gửi cơ quan quản lý, địa phương và thông tin cho người nuôi phục vụ công tác quản lý và thực tiễn nuôi biển.

(2) Kết quả quan trắc và đánh giá môi trường vùng nuôi biển tại 3 tỉnh, thành phố trong các tháng 5 - 11/2024 đạt được như sau:

- Tại vùng nuôi biển của Quảng Ninh: Các thông số môi trường cơ bản đều nằm trong khoảng GHCP, nhiệt độ nước ghi nhận khá cao trong các tháng 5 - 9/2024. Thời điểm tháng 5 - 8/2024 có bất lợi về sự giảm hụt DO, nhiệt nước tăng cao, độ muối giảm thấp, độ đục tăng là thời điểm có nhiều bất lợi đối với đối tượng nuôi. Hàm lượng NNH4+ quan trắc được tại một điểm ở mức vượt GHCP, với 94/188 mẫu (tỷ lệ 50,0%) mẫu vượt GHCP từ 1,1 - 3,0 lần, các khu vực nuôi có hàm lượng cao là hòn Ông Cụ, hòn Bọ Cắn, hòn Béo Cò, Cống Đông - Công Tây. Hàm lượng COD ghi nhận được cũng khá cao, nhiều điểm ở mức vượt ngưỡng phù hợp với NTTS, những khu vực có hàm lượng COD cao gần như tương đồng với khu vực có N-NH4+ cao. Mật độ TVPD và tảo độc hại ghi nhận mật độ khá cao, nhất là các tháng 5 - 8/2024, tuy nhiên chỉ ghi nhận là tảo gây hại, tảo độc có mật độ thấp, quần xã TVPD ở mức đa dạng khá phong phú. Mật độ Coliform có 22/94 mẫu (tỷ lệ 23,4%) mẫu vượt GHCP, tập trung chủ yếu ở hòn Hòn Ông Cụ, hòn Bọ Cắn, Cống Đông - Cống Tây. Mật độ Vibrio tổng số cũng khá cao, có 18/94 mẫu (đạt tỷ lệ 19,2%) mẫu có mật độ vượt ngưỡng khuyến cáo phù hợp với NTTS, tập trung chủ yếu ở khu vực nuôi của ở hòn Ông Cụ, Cống Đông - Cống Tây, hòn Bọ Cắn vào thời điểm tháng 5 - 8/2024, dây cũng là những khu vực và thời điểm ghi nhận cá nuôi có biểu hiện bơi lờ đờ, nổi đầu, bị lở loét, chết rải rá.

- Vùng nuôi biển của Hải Phòng: Các vùng nuôi biển của Hải Phòng thể hiện mức độ ô nhiễm cao nhất trong 3 vùng nuôi biển được quan trắc. Khu vực nuôi biển ở Hang Vem - Vụng O có mức độ ô nhiễm cao hơn khu vực hòn Thoi Quýt. Kết quả ghi nhận có 6/60 mẫu tầng đáy có DO nằm ngoài khoảng GHCP. Do ảnh hưởng của các đợt nắng nóng gay gắt kéo dài nền nhiệt năm 2024 tăng, nhiệt độ nước biển vùng nuôi khá cao trong tháng 6 - 8/2024, cùng với lượng mưa lớn, đây là yếu bất lợi kéo theo hệ lụy ảnh hưởng đến chất lượng môi trường và đối tượng nuôi. N-NH4+ vượt nhiều lần GHCP, ghi nhận có 93/120 mẫu có hàm lượng vượt GHCP chủ yếu ở khu vực Hang Vẹm - Vụng O; COD cũng ở mức cao và vượt ngưỡng phù hợp với NTTS, có 13/120 mẫu vượt. Mật độ TVPD và tảo độc hại ghi nhận với mật độ cao, nhất là giai đoạn tháng 6-8/2024; qua các chỉ số của quần xã TVPD cho thấy chất lượng môi trường nước vùng nuôi đã có những bất lợi vào thời điểm tháng 6 - 8/2024. Mật độ nhóm Coliform và Vibrio tổng số ở mức cao và vượt GHCP (Coliform có 39/60 mẫu và Vibrio tổng số có 34/60 mẫu vượt ngưỡng). Ở vùng nuôi biển của Hải Phòng trong giai đoạn tháng 5 - 8 ghi nhận có nhiều bất lợi về môi trường, cần tăng cường theo dõi và quản lý môi trường vùng nuôi, cũng như có các biện pháp phù hợp chăm sóc đối tượng nuôi.

- Vùng nuôi biển của Kiên Giang: Hầu hết các thông số nằm trong khoảng GHCP, ngoại trừ thông số DO, độ muối và độ đục ở vùng nuôi gần bờ, thậm chí khu vực Hòn Tre ghi nhận độ muối dưới 10‰, DO có 1/77 mẫu tầng đáy nằm ngoài khoảng GHCP. Kết quả đã ghi nhận có 43/154 mẫu có hàm lượng vượt GHCP, tập trung chủ yếu ở khu vực nuôi của Hòn Nhum, Hòn Heo và Hòn Tre. COD quan trắc được cũng khá cao, hầu hết là các mẫu ở Hòn Tre, Hòn Nhum, Hòn Heo có hàm lượng vượt ngưỡng phù hợp với NTTS. Mật độ TVPD và tảo độc hại cũng khá cao, vào thời điểm tháng 6 - 11/2024, tăng cao đột biến vào đợt tháng 9 và tháng 11. Kết quả ghi nhận 23/77 mẫu có mật độ Coliform và 26/77 mẫu có mật độ Vibrio tổng số vượt ngưỡng, tập trung chủ yếu ở hòn Nhum, hòn Heo, hòn Tre. Các khu vực nuôi ven bờ như Hòn Tre, Hòn Nhum, Hòn Heo cần tăng tường theo dõi và quản lý môi trường vùng nuôi, đây là những khu vực đã có biểu hiện ô nhiễm, đặc biệt trong giai đoạn tháng 6 - 10 ghi nhận các thông số môi trường có nhiều bât lợi nhất.

- Kết quả đánh giá chất lượng nước vùng nuôi biển của Quảng Ninh qua chỉ số WQI cho thấy rõ khu vực nuôi ở Hòn Ông Cụ có mức chất lượng môi trường thấp - ở mức trung bình; tháng 6 - 10 có mức chất lượng thấp hơn các tháng khác được quan trắc. Ở Hải Phòng, chất lượng môi trường nước ở khu vực Hang Vẹm - Vụng O có mức chất lượng trung bình; các tháng 5 - 9/2024 có mức chất lượng trung bình, các tháng còn lại ở mức tốt đến rất tốt. Ở Kiên Giang, khu vực nuôi ở Hòn Tre và Hòn Heo có mức chất lượng thấp, đặc biệt Hòn Tre ở mức xấu, khu vực Hòn Nhum ở mức tốt nhưng giá trị gần đạt mức trung bình. Đây là những thông tin quan trọng làm cơ sở phục vụ công tác quản lý và thực tiễn sản xuất của mỗi khu vực nuôi biển. Tuy nhiên, nếu đánh giá chất lượng nước theo WQI_VN thì các khu vực nuôi và tháng quan trắc ở mức rất tốt.

- Đánh giá mức độ ô nhiễm T-N, T-P trong trầm tích vùng nuôi đều ghi nhận ở mức ô nhiễm nhẹ, nhưng vùng nuôi của Hải Phòng có giá trị Pi cao hơn vùng Kiên Giang, thấp nhất là vùng Quảng Ninh. Đối với mỗi khu vực nuôi, kết qủa tính toán cho thấy mức ô nhiễm trầm tích ở mức không ô nhiễm đến ô nhiễm nặng; trầm tích ở khu vực Hòn Ông Cụ (Quảng Ninh), Hang Vẹm - Vụng O (Hải Phòng) và Hòn Tre (Kiên Giang) ở mức ô nhiễm cao nhất. Kết quả đánh giá chung môi trường bằng phương pháp MOM cho thấy, các vùng nuôi ở Quảng Ninh, Kiên Giang ở mức nhỏ hơn sức tải môi trường, có những tác động nhất định đến môi trường; vùng nuôi của Hải Phòng ở mức bằng với ngưỡng sức tải môi trường, có tác động đến môi trường.

- Trong thời gian quan trắc đã ghi nhận những đợt cá nuôi bị chết rải rác, cá nổi đầu, bỏ ăn, lở loét ở khu vực nuôi của Hang Vẹm - Vụng O (Hải Phòng), hòn Béo Cò, hòn Ông Cụ (Quảng Ninh) và Hòn Tre, Hòn Nhum, Hòn Heo (Kiên Giang), đây là những dấu hiệu cho thấy rõ nguy cơ xảy ra sự cố môi trường nuôi rất lớn. Đây là những những khu vực nuôi có mật độ ô lồng lớn, môi trường biểu hiện ô nhiễm nhất trong các khu vực được quan trắc. Cần thực hiện các biện pháp phù hợp để phòng tránh và giảm thiểu ảnh hưởng đến hoạt động nuôi ở đây.

(3) Nhiệm vụ đã kịp thời quan trắc, đánh giá môi trường có diễn biến phức tạp, bất thường về màu nước tại Hòn Tre, Hòn Sơn, Nam Du trên cơ sở mẫu vật thu thập được, từ nguồn dữ liệu lịch sử, nguồn viễn thám. Kết quả đã được cung cấp thông tin, dữ liệu, khuyến cáo nhằm phục vụ công tác chỉ đạo và ổn định sản xuất nuôi biển ở Kiên Hải - Kiên Giang.

(4) Từ kết quả quan trắc, đánh giá môi trường vùng nuôi biển của 3 tỉnh thành phố, nhiệm vụ đã nêu một số nguyên nhân gây ô nhiễm và đề xuất kiến nghị giải pháp quản lý môi trường vùng nuôi như:

- Vấn đề môi trường vùng nuôi là ô nhiễm môi trường vùng nuôi chủ yếu là ô nhiễm dinh dưỡng (N-NH4+ nhiều lượt vượt GHCP) và chất hữu cơ, mật độ TVPD, tảo gây hại, Coliform và Vibrio khá cao, nhiều khu vực ở mức vượt GHCP. Tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự cố môi trường vùng nuôi như cá nuôi bị yếu, lở loét, chết rải rác...  Việc nuôi với mật độ ô lồng dày đặc, lượng thức ăn dư thừa và chất bài tiết của đối tượng nuôi lắng đọng trong trầm tích, chất thải từ hoạt động dân sinh trên bè và trên đảo, hoạt động giao thông vận tải, tàu thuyền, du lịch, cùng với các chất ô nhiễm có nguồn gốc từ lục địa là những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường vùng nuôi.

- Về khu vực nuôi, cần tăng cường theo dõi, quản lý môi trường và chăm sóc đối tượng nuôi phù hợp đối với những khu vực nuôi như: hòn Ông Cụ, Hòn Bọ Cắn và khu Soi Nhụ ở Quảng Ninh; khu vực Hang Vẹm - Vụng O ở Hải Phòng; khu nuôi ở Hòn Nhum, Hòn Heo, Hòn Tre của Kiên Giang. Thời gian cần tăng cường theo dõi, quản lý môi trường vùng nuôi trong giai đoạn tháng 5 - 9 ở vùng nuôi của Quảng Ninh và Hải Phòng; ở Kiên Giang tăng cường trong giai đoạn mùa mưa, nhất là tháng 6 - 9. Cùng với đó, cần thực hiện các giải pháp quản lý và kỹ thuật nhằm giảm thiểu ảnh hưởng đến hoạt động nuôi như: đánh giá sức tải vùng nuôi để điều chỉnh phù hợp, thực hiện nghiêm theo quy hoạch, thu gom và quản lý tốt chất thải từ hoạt động nuôi và dân sinh, vướt triệt để cá đã chết và bị bệnh, phát triển theo hướng giảm thiểu ô nhiễm, thân thiện môi trường, tăng cường sử dụng thức ăn công nghiệp, phát triển nuôi biển xa bờ…

8) Thời gian bắt đầu - kết thúc: 05/2024 - 12/2024

9) Kinh phí thực hiện: 2.810,0 triệu đồng, trong đó kinh phí từ NSNN: 2.810,0 triệu đồng, nguồn khác: 0 triệu đồng