Trong xu hướng phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay, thuỷ sản đang được coi là một ngành kinh tế mũi nhọn. Trong giai đoạn 1990-2003, tổng sản phẩm đánh bắt và nuôi trồng tăng 2,6 lần, riêng khai thác cá biển tăng gấp hơn 3 lần giai đoạn 1980-2003 (RIMFa). Với tốc độ tăng trưởng nhanh như vậy, đóng góp quan trọng của nghề khai thác cá biển vào nền kinh tế quốc dân là động lực thúc đẩy nghề cá phát triển hơn nhưng cũng đồng thời là một thách thức đối với các nhà quản lý nghề cá trong việc duy trì và phát triển bền vững lĩnh vực kinh tế này.
Nguồn lợi hải sản không phải là bất biến và cũng không phải là vô tận. Chúng bị tác động rất lớn từ các hoạt động của con người như phá hủy nơi sinh cư (các rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn...), sự phát triển thiếu kiểm soát ngành khai thác hải sản, ô nhiễm môi trường do các hoạt động kinh tế khác ở trên đất liền và trên biển. Những vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lợi hải sản biển Việt Nam
1. Tổng thể nguồn lợi biển Việt Nam
Nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa, biển Việt Nam có sự đa dạng rất cao về thành phần các giống loài hải sản. Với chiều dài hơn 3000 km và nhiều dạng địa hình bờ biển khác nhau (vịnh, thềm lục địa dốc, cửa sông, đảo và quần đảo, rạn san hô, đầm phá...) cộng với đặc trưng của hai mùa gió Đông Bắc và Tây Nam, biển Việt Nam đã tạo nên rất nhiều phức hệ sinh thái khác nhau. Con số tổng hợp gần đây nhất chỉ ra sự phong phú về đa dạng sinh học của biển Việt Nam với 2030 loài cá, trong đó 130 loài có giá trị kinh tế, 1600 loài giáp xác, 2500 loài sò trai… và rất nhiều loài rong, chim biển (RIMFa).
Theo nghiên cứu năm 2005 về hiện trạng nguồn lợi hải sản Việt Nam do Viện Nghiên cứu Hải sản tiến hành(RIMFb), tổng trữ lượng hải sản biển Việt Nam ước đạt 4,061 triệu tấn, trong đó trữ lượng cá nổi nhỏ khoảng 1,73 triệu tấn (chiếm 42,6%), cá đáy khoảng 1,174 triệu tấn ( 28,9%), cá nổi đại dương khoảng 1,156 triệu tấn (28,5%). Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng khả năng khai thác của toàn bộ vùng biển Việt Nam khoảng 1,8 triệu tấn trong đó cá đáy chiếm khoảng 26,1%, cá nổi nhỏ 48,1%, cá nổi đại dương 25,7%. Trữ lượng và khả năng khai thác của từng vùng biển được trình bày trong bảng sau:
Bảng 1. Trữ lượng và khả năng khai thác của từng vùng biển Việt nam (RIMFb)
| Trữ lượng (tấn) | Khả năng khai thác (tấn) |
Vịnh Bắc Bộ | 543.269 | 256.308 |
Trung Bộ | 1.092.150 | 486.860 |
Đông Nam Bộ | 828.850 | 383.940 |
Tây Nam Bộ | 439.992 | 207.597 |
Giữa Biển Đông | 1.156.033 | 462.413 |
Tổng | 4.060.294 | 1.797.118 |
Nguồn lợi hải sản biển Việt nam thuộc khu hệ cá biển nhiệt đới với tính chất đa loài, sống phân tán, ít tập trung nên cũng ảnh hưởng khá lớn tới năng suất và thành phần sản lượng khai thác. Thành phần loài chủ yếu bao gồm các loài có kích thước nhỏ, tốc độ sinh trưởng cao vào sức sinh sản cũng cao.... Tại các vùng biển nông như Vịnh Bắc bộ, biển Đông Tây Nam Bộ, đối tượng thường cho sản lượng cao là cá liệt, cá lượng, cá khế, cá phèn khoai, cá trác, cá hố, cá mối, cá nục sồ, mực nang và mực ống. Vùng biển miền Trung và giữa biển Đông là các loại cá thu ngừ, cá kiếm cờ, cá nục heo, cá ó, dơi. Nghề câu khơi thương bắt gặp cá ngừ vây vàng, cá mập, cá ngừ mắt to, cá cờ và cá kiếm. Tôm cũng là một nguồn lợi quan trọng ở nhiều vùng biển, nhất là khu vực Vịnh Bắc Bộ và Đông Nam Bộ.
2. Hiện trạng khai thác trong thời gian qua
Khai thác hải sản là một nghề truyền thống của đại bộ phận cư dân ven biển. Trên 80% tàu thuyền tập trung khai thác chủ yếu ở vùng nước nông ven bờ trong khi vùng này chỉ chiếm khoảng 11% diện tích vùng đặc quyền kinh tế. Sản lượng khai thác bền vững ở vùng nước có độ sâu nhỏ hơn 50m được ước tính khoảng 0,6 triệu tấn trong khi sản lượng khai thác ven bờ hiện nay đã đạt khoảng 1,1 triệu tấn. Điều này chứng tỏ sức ép khai thác lên nguồn lợi ven bờ là quá lớn (RIMFa).
Thống kê năm 2005 của Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi cho thấy, tổng số tàu thuyền trong cả nước là hơn 85000 chiếc trong đó hơn 84% là tàu công suất nhỏ dưới 90CV. Những năm gần đây, số tàu thuyền đã tăng lên khá nhanh. Nhiều tàu cỡ lớn được đóng mới để khai thác xa bờ nhưng lại trở lại khai thác gần bờ do chi phí khai thác cao mà hiệu quả khai thác lại thấp. Những điều này tạo nên áp lực khai thác quá mức đối với nguồn lợi ven bờ và cũng tạo nên sự bất hợp lý khi tổng công suất máy tàu tăng 3,17 lần trong giai đoạn 1993-2003 nhưng tổng sản lượng khai thác chỉ tăng lên được 1,8 lần. Số liệu thống kê sơ bộ đã chỉ ra rằng trong khoảng thời gian từ 1981 đến 2004, mỗi năm ở nước ta có thêm 2929 chiếc tầu mới (tương dương với 164579 CV/năm) tham gia vào nghề khai thác cá biển(RIMFa). Sự gia tăng này thể hiện cường lực khai thác hay áp lực khai thác lên nguồn lợi ngày một cao (Hình 1).
Hình 1. Biến động tổng công suất máy và năng suất khai thác (1985-2003)
Đối ngược với xu hướng gia tăng của tàu thuyền, năng suất khai thác cũng như chất lượng nguồn lợi đang có xu hướng suy giảm. Mặc dù tổng sản lượng khai thác tăng liên tục trong thời kỳ này từ 419.470 tấn (1981) lên 1.724.200 tấn (2004) với sự gia tăng bình quân 46.431tấn/năm, nhưng năng suất đánh bắt bình quân (tấn/cv/năm) lại thể hiện khuynh hướng giảm và đặc biệt là giảm liên tục từ năm 1985 đến nay. Nếu năng suất đánh bắt năm 1985 là 1,11 tấn/cv/năm thì đến năm 2003 giá trị này chỉ còn khoảng 0,35 tấn/cv/năm, tốc độ giảm bình quân 0,04 tấn/cv/năm (RIMFa). Vùng nước ven bờ vốn là vùng nhạy cảm nơi tập trung các bãi đẻ cho các đàn cá bố mẹ, nơi sinh cư của các loài cá con, khó có thể chịu đựng được áp lực khai thác cao, thiếu hợp lý như đã trình bày ở trên.
Nghiên cứu về các đội tàu thương phẩm do dự án ALMRV tiến hành ở cả 4 vùng biển Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ giai đoạn 2000-2004 cho thấy xu hướng giảm sút về năng suất khai thác trong rất nhiều đội tàu lưới giã, lưới vây, lưới rê. Các đội tàu khác có năng suất không đổi hoặc hơi tăng nhưng vấn đề phổ biến trong hầu hết các đội tàu là các nhóm các có giá trị kinh tế cao ít đi, tỷ lệ cá phân trong sản lượng ngày càng gia tăng. Ở các nghề khai thác tôm như giã đơn tôm ở Đông Nam Bộ, tỷ lệ, năng suất khai thác tôm đều giảm đồng thời các loài tôm có giá trị ngày càng ít đi. Riêng giã sào ở Vịnh Bắc Bộ, năng suất khai thác theo ngày tăng, doanh thu ổn định, nhưng giá tôm trung bình giảm từ 70-80 ngàn đồng/kg năm 2000 xuống còn khoảng 20-30 ngàn đồng/kg năm 2004; điều này chứng tỏ chất lượng tôm giảm đi rõ rệt và ngư dân cố khai thác tăng sản lượng để duy trì doanh thu.
Một chứng minh khác nữa về sự suy giảm chất lượng nguồn lợi được tìm thấy ở các chuyến điều tra do Viện Nghiên cứu Hải sản tiến hành giai đoạn 2001-2005. Sự suy giảm thể hiện ở năng suất đánh bắt(bao gồm năng suất đánh bắt chung, năng suất đánh bắt của các nhóm sinh thái, năng suất đánh bắt các loài cá kinh tế ), kích thước đánh bắt trung bình, hiện trạng hệ sinh thái (bao gồm năng suất đánh bắt các loài cá dữ hàng đầu, năng suất đánh bắt các loài nhạy cảm, bậc dinh dưỡng trung bình và chỉ số đa dạng sinh học).
1. Điều tra nguồn lợi bằng lưới giã tôm ở vùng biển Vịnh Bắc Bộ và Đông Tây Nam Bộ cho thấy kích thước tôm và tỷ lệ tôm trong sản lượng khai thác đều giảm (RIMFb).
2. Điều tra nguồn lợi bằng lưới giã cáở vùng biển Vịnh Bắc Bộ và Trung Bộ cho thấy các loài cá có giá trị kinh tế kém như cá sơn(Apogonidae), cá liệt (Leiognathidae) đang chiếm ưu thế trong khi các họ có giá trị kinh tế cao như mực, cá trác lại bị suy giảm mạnh (RIMFb).
3. Điều tra nguồn lợi bằng lưới giã ở vùng biển Đông và Tây Nam Bộ chỉ ra sự suy giảm đáng kể năng suất khai thác của những loài cá kinh tế như mực ống (Loliginidae), cá khế (Carangidae), cá đù (Sciaenidae), mực nang (Sepiidae) và họ cá lượng (Nemipteridae). Thay vào đó là sự tăng độ phong phú của những loài cá kém giá trị như cá liệt (Leiognathidae), cá sơn (Apogonidae), cá chào mào (Dactylopteridae), cá nóc (Tetraodontidae). Kích thước khai thác trung bình của các loài cá có giá trị kinh tế như chỉ vàng (Selaroides leptolepis), mối thường (Saurida tumbil), mối vạch (Saurida undosquamis), phèn khoai (Upeneus bensasi), cá bạc má (Rastrelliger kanagurta), và lượng vân sóng (Nemipterus bathybius), mực ống trung hoa (Loligo chinesis), mực nang gai cong (Sepia esculenta) đều thể hiện xu hướng giảm (RIMFb).
Bảng 2. Xu hướng suy giảmnăng suất khai thác chung (kg/giờ) của nguồn lợi hải sản vùng biển Tây nam bộ qua 4 chuyến điều tra bằng lưới giã đơn thực hiện trong giai đoạn 2000-2005(RIMFb).
Hình 2. Xu hướng suy giảm năng suất khai thác (kg/giờ ± CI) của cá tráo mắt to ở Tây nam bộ qua 4 chuyến điều tra bằng lưới giã đơn giai đoạn 2000-2005 (RIMFb). | Hình3. Xu hướng suy giảm năng suất khai thác (kg/giờ ± CI) của nhóm cá rạn san hô phân bố ở vùng biển Tây nam bộ qua 4 chuyến điều tra bằng lưới giã đơn giai đoạn 2000-2005 (RIMFb). |
Hình 4. Xu hướng suy giảm năng suất đánh bắt của các loài cá dữ hàng đầu ở vùng biển Đông Nam Bộ qua các chuyến điều tra, 2000-2005(RIMFb).. | Hình 5. Xu hướng suy giảm năng suất đánh bắt của các loài nhạy cảm đánh được bằng lưới kéo đáy ở vùng biển Đông Nam Bộ, 2000-2005 (RIMFb). |
Trong tình trạng nguồn lợi và nghề khai thác đều có những bất cập như trên, việc quản lý khai thác lại chưa chặt chẽ, đặc biệt là thiếu chiến lược quản lý và phát triển nghề cá bền vững. Hiện tại, việc thiếu các chính sách quản lý phù hợp và kịp thời vẫn còn là vấn đề cần được quan tâm. Đã có nhiều văn bản về quản lý nguồn lợi được ban hành nhưng một số còn trùng lặp và không rõ ràng. Hơn nữa cũng chưa có những hướng dẫn cụ thể, phù hợp cho những văn bản luật nói trên. Công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện những văn bản luật còn yếu cả ở trung ương và địa phương.
Với lực lượng kiểm ngư mỏng, việc kiểm soát các nghề khai thác bất hợp pháp hay các khu vực cấm khai thác còn chưa đáp ứng đúng yêu cầu. Một bộ phận ngư dân sử dụng những hình thức khai thác huỷ diệt như dùng chất nổ, chất độc, xung điện, lưới mắt nhỏ hoặc các nghề có hại như te đẩy, lưói đăng, đáy càng làm cho nguồn lợi trở nên cạn kiệt và khó phục hồi hơn. Nhiều loài trước đây rất phổ biến nhưng hiện nay đã trở lên kham hiếm như cá đé (Ilisha elongata) hay cá sủ (Otholithes biaurius) ... Đây là những biểu hiện về sự suy giảm tính đa dạng sinh học về loài đối với nguồn lợi hải sản biển Việt Nam
Việc xác định sự phù hợp giữa số lượng tàu tham gia khai thác ở từng vùng biển và cho từng loại nghề cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ. Chính vì sự phát triển thiếu kế hoạch nên nhiều đội tàu tăng mạnh về số lượng mà hiệu quả kinh tế lại giảm sút. Nhiều tàu phải chuyển đổi nghề vì khai thác không hiệu quả.
Quá trình phát triển, đô thị hoá, xây dựng các công trình ven biển và các đầm nuôi trồng thuỷ hải sản đã góp phần làm ô nhiễm, huỷ hoại môi trường sống của các loài hải sản như rừng ngập mặn, bãi cỏ biển, rạn san hô nơi thường là bãi đẻ và bãi sinh trưởng của cá biển.
Số lao động nghề cá tăng liên tục trong những năm gần đây, từ khoảng 270.000 người năm 1990 lên khoảng 540.000 người năm 2000, cũng là một yếu tố làm gia tăng áp lực khai thác lên nguồn lợi vốn có hạn (RIMFa).
Một hạn chế khác nữa cần phải kể đến là kĩ thuật khai thác, vận chuyển, chế biến còn yếu kém và chưa đồng bộ. Hiện tại Việt Nam vẫn chưa có các mô hình sản xuất đạt hiệu quả cao như các nước có nghề cá phát triển. Cho tới nay việc tổ chức thu mua nguyên liệu vẫn chủ yếu do các chủ nậu vựa tự do bao quát, không có tổ chức. Việc bảo quản sau thu hoạch còn nhiều bất cập, các khoang, thùng chứa nguyên liệu thường có kết cấu không hợp lý, cách nhiệt kém; công tác vệ sinh, khử trùng các khoang chứa nguyên liệu này chưa được quan tâm đúng mức ; đá dùng cho bảo quản còn chưa đảm bảo chất lượng. Những điều này dẫn đến hạn chế về chất lượng sản phẩm lên bến và doanh thu của người đi khai thác.
3. Xem xét hướng phát triển khai thác xa bờ
Nhằm giảm áp lực khai thác lên nguồn lợi ven bờ, một trong những giải pháp mà chính phủ Việt Nam đã lựa chọn là phát triển nghề khai thác xa bờ. Hiện nay cơ cấu đội tàu xa bờ bao gồm 37,5% tàu lưới kéo, 20,5% tàu câu, 20,2% tàu rê, 14,3% tàu vây và 7,5% nghề khác (RIMFa).
Theo điều tra nguồn lợi của Viện Nghiên cứu Hải sản ở vùng biển Vịnh Bắc Bộ Trung Bộ và Đông Tây Nam Bộ trong trong giai đoạn 2000-2005, năng suất khai thác tăng lên theo độ sâu. Nhìn chung, năng suất khai thác ở dải độ sâu <50m thấp trong khi năng suất đạt cao nhất ở dải độ sâu 100-200m (RIMFb).
Điều tra nguồn lợi xa bờ vùng biển miền Trung cho thấy nguồn lợi vùng biển này còn tương đối giàu tiềm năng với các họ cá có giá trị kinh tế cao như thu ngừ, kiếm cờ, nhám, nục... Riêng cá thu ngừ luôn chiếm từ 50% đến gần 90% trong sản lượng của các chuyến điều tra bằng lưới rê trôi(RIMFb).
Theo một nghiên cứu khác cũng của Viện Nghiên cứu Hải sản về dốc thềm lục địa, ở dải độ sâu 100-200m, đã bắt gặp khoảng trên 100 loài hải sản khác nhau như cá, tôm biển sâu, ghẹ, ốc..., tuy sản lượng không cao. Cá Chình là một trong những đối tường thường xuyên bắt gặp, cá Đổng, Nục đỏ đuôi có kích thước khá lớn. Điều đó chứng tỏ nguồn lợi ở đây còn khai thác được nếu có các ngư lưới cụ phù hợp (RIMFc).
Trong những năm qua, ngành thuỷ sản đã nỗ lực để phát triển đội tàu xa bờ. Tuy nhiên hiệu quả khai thác của đội tàu này còn rất hạn chế. Hiện nay, đội tàu khai thác xa bờ đang phải đối mặt với những khó khăn về chi phí khi đi khai thác, trong khi kĩ thuật và kinh nghiệm còn hạn chế, thiếu thông tin về nguồn lợi, ngư trường, mùa vụ... Vì vậy hiệu quả khai thác kém, trả vốn vay chậm, một số tàu bị bỏ không vì thua lỗ nặng.
Điều tra về hiện trạng khai thác hải sản của Viện Nghiên cứu Hải sản cũng cho thấy khả năng khai thác xa bờ có thể không cao như những suy nghĩ trước đây. Vì vậy cần có kế hoạch phát triển đội tàu xa bờ một cách thận trọng, dựa trên những nghiên cứu và hiểu biết đầy đủ về nguồn lợi xa bờ cũng như khai thác xa bờ nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nguồn lợi xa bờ cũng như đội tàu khai thác xa bờ (RIMFa).
4. Khuyến nghị
Với những thách thức về thực trạng nguồn lợi như trên, ngành thuỷ sản cần có những chính sách quản lý nguồn lợi phù hợp để bảo vệ và phát triển nghề cá một cách bền vững. Một số dự án thí điểm về bảo tồn nguồn lợi đã được thực hiện ở một số địa phương nhưng cần phải nhanh chóng nhân rộng ra phạm vi cả nước. Để đảm bảo duy trì nguồn lợi hải sản, các khuyến nghị sau đây cần phải được xem xét và thực hiện:
1. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân trong việc thực thi pháp luật và bảo vệ nguồn lợi, để họ hiểu và tự giác chấp hành. Tuy nhiên, với một bộ phận ngư dân chỉ chuyên sử dụng các nghề khai thác có hại, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ họ chuyển đổi nghề nghiệp, để họ có một sinh kế bền vững mà không quay lại hình thức khai thác cũ.
2. Tăng cường công tác quản lý tàu thuyền và việc khai thác của ngư dân thông qua việc kiểm kê, đánh giá hiện trạng lực lượng tàu thuyền khai thác hải sản hàng năm theo các tiêu chí thống nhất. Hiện nay các đội tàu nhỏ dưới 20HP hầu như các tỉnh không quản lý được. Việc cấp giấy phép khai thác cũng chỉ do cấp tỉnh quản lý nên tình trạng khai thác quá mức ở các ngư trường chung là tất yếu.
3. Cần có các đề tài nghiên cứu cụ thể về các đội tàu để xác định đội tàu nào cần giảm, duy trì hoặc phát triển và phát triển như thế nào cho hợp lý. Những nghiên cứu này cần đưa ra những căn cứ về nguồn lợi, khả năng kinh tế và kỹ năng khai thác của ngư dân, tránh tình trạng lặp lại như đã xảy ra với đội tàu xa bờ trong nhưng năm qua. Ngược lại, đối với những nghề cần giảm số lượng tàu thuyền thì phải có chính sách hỗ trợ kinh tế rõ ràng đối với ngư dân.
4. Duy trì thường niên các chuyến điều tra về nguồn lợi để xác định tình trạng nguồn lợi cả ven bờ và xa bờ, nâng cao độ chính xác của các dự báo ngư trường cũng như khả năng khai thác cho từng năm.
5. Tăng cường công tác thống kê thuỷ sản, thông qua các chỉ số để xác định áp lực khai thác lên nguồn lợi, từ đó có các điều chỉnh phù hợp trong quản lý nghề cá.
6. Dựa trên các nghiên cứu trong và ngoài ngành, xác định các khu vực cần bảo tồn, mùa vụ cấm khai thác và các loài cần bảo vệ. Giảm tối đa các phương pháp khai thác làm hại nguồn lợi, cải tiến ngư cụ, du nhập, ứng dụng loại nghề khai thác chọn lọc và có hiệu quả.
7. Phối hợp quản lý vùng nước ven bờ giữa nhà nước và nhân dân thông qua các hình thức như đồng quản lý hoặc giao cho cộng đồng dân cư địa phương quản lý.
8. Tăng cường vấn đề bảo vệ môi trường như cấm các nghề huỷ diệt nguồn lợi, quản lý chặt kích thước mắt lưới khai thác, tái tạo và xây dựng thêm các khu rừng ngập mặn, bãi cỏ biển, rạn san hô… Có biện pháp quản lý các chất thải ô nhiễm ra biển từ việc phát triển các công trình, các loại hình kinh tế ven biển cũng như nuôi trồng thuỷ hải sản.
9. Xây dựng các mô hình hợp tác xã kiểu mới, nâng cao năng lực hậu cần dịch vụ, tổ chức tốt công tác thu mua, ứng dụng phương pháp bảo quản sản phẩm như: nước biển lạnh, đá lỏng, đá có máy lạnh bổ sung, đá khô….và phải đặc biệt quan tâm tới công tác vệ sinh.
Tài liệu tham khảo
1. RIMFa. Chiến lược khai thác hải sản 2006-2010. Viện Nghiên cứu Hải sản, 2005
2. RIMFb. Hiện trạng khai thác nguồn lợi hải sản Việt Nam. Phòng Nguồn lợi, Viện Nghiên cứu Hải sản, tháng 11 năm 2005.
3. Báo cáo tình hình thực hiện Dự án “Đánh giá nguồn lợi cá rạn san hô ở một số vùng dự kiến thiết lập khu bảo tồn biển và một số loài hải sản có giá trị kinh tế cao ở dốc thềm lục địa Việt Nam, đề xuất các giải pháp sử dụng bền vững nguồn lợi”. Viện Nghiên cứu Hải sản, 9/2005."
Chu Tiến Vĩnh, Nguyễn Thị Diệu Thuý
Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi hải sản
Đặng Văn Thi, Nguyễn Bá Thông
Viện Nghiên cứu Hải sản