Thái Lan là nhà cung cấp hàng đầu về tôm đông lạnh các loại và tôm chế biến giá trị gia tăng, nhưng khối lượng và giá trị đều giảm. Về tôm thịt đông lạnh, Thái Lan cũng là nhà cung cấp hàng đầu, khối lượng và giá trị xuất tăng khá so với cùng kỳ năm 2006.
Tổng nhập khẩu tôm của Mỹ trong 9 tháng đầu năm đạt 392 nghìn tấn, trị giá 2,71 tỷ USD, trong đó khối lượng giảm 2,3%, giá trị giảm 1,8% so với cùng kỳ 2006.
Trung Quốc là nhà cung cấp hàng đầu về tôm bao bột bánh mì đông lạnh, tuy nhiên về khối lượng (-24,2%) và giá trị đều giảm khá so với cùng kỳ 2006.
Thái Lan là nhà cung cấp hàng đầu về tôm đông lạnh các loại và tôm chế biến giá trị gia tăng, nhưng khối lượng và giá trị đều giảm. Về tôm thịt đông lạnh, Thái Lan cũng là nhà cung cấp hàng đầu, khối lượng và giá trị xuất tăng khá so với cùng kỳ năm 2006.
Về tôm vỏ đông lạnh cỡ 15/20, Bănglađét, Ấn Độ và Mêhicô có khối lượng xuất khẩu khoảng 2.300 – 2.400 tấn, tương đương với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên Mehicô đã tăng gấp đôi giá trị xuất.
Mêhicô dẫn đầu về xuất tôm cỡ 21-25, đạt 5.300 tấn. Nước này đã tăng gấp đôi khối lượng so với cùng kỳ năm ngoái. Thái Lan là nhà cung cấp lớn thứ 2, trị giá đạt 29,9 triệu USD.
Thái Lan là cung cấp lớn nhất tôm cỡ 26/30 và 31/40. Với cỡ 26/30, Thái Lan đã xuất 9.400 tấn, trị giá 58,3 triệu USD, tăng nhẹ về khối lượng và giảm về giá trị. Cỡ 31/40 , Thái Lan đã xuất 8.600 tấn, trị giá 46,4 triệu USD.
Êcuađo đã vượt Thái Lan lên dẫn đầu về xuất tôm cỡ 41-50. Khối lượng xuất của Thái Lan giảm trong 9 tháng đầu năm.
Êcuađo và Thái Lan là những nhà sản xuất đứng đầu của 3 cỡ : 51/60, mỗi nước xuất khoảng 8.800 tấn, nhưng Thái Lan đạt giá trị 47 triệu USD, Êcuađo đạt 39,1 triệu USD. Ở cỡ 61-70, Êcuađo vượt Thái Lan đạt khối lượng 5.800 tấn, trị giá 23,5 triệu USD, Thái Lan đạt 2.200 tấn.
Việt Nam là nhà cung cấp lớn nhất về tôm cỡ lớn từ 15 trở xuống, đạt khối lượng 4.400 tấn, trị giá 71,5 triệu USD, tăng so với 3.500 tấn và 55,7 triệu USD cùng kỳ năm ngoái.
Êcuađo đứng đầu về tôm từ cỡ 70 trở lên, xuất 4.600 tấn, trị giá 17,1 triệu USD, giảm khá so với cùng kỳ năm 2006.
Nguồn vasep