Lần đầu tiên XK tôm của Việt Nam vượt con số 2 tỷ USD. Theo số liệu chính thức, 11 tháng 2010 XK các mặt hàng tôm của cả nước đạt gần 219.000 tấn, giá trị khoảng 1,9 tỷ USD. Ước tính, cả năm 2010: 240.000 tấn với giá trị khoảng 2,08 tỷ USD (năm 2009: 209.567 tấn, 1,675 tỷ USD). Xuất khẩu tôm 2010 sang 92 thị trường, tăng hơn 10 thị trường so với năm 2009. Năm 2010 cũng ghi nhận sự tham gia của 341 đơn vị XK các mặt hàng tôm, trong đó: 149 DN XK tôm chân trắng, 163 DN XK các mặt hàng tôm sú.
Theo đánh giá, có 4 yếu tố chính góp phần cho kết quả XK tôm năm nay.
1. Sự tham gia của tôm chân trắng
Tôm chân trắng bắt đầu được cho phép nuôi từ năm 2008. Diện tích và sản lượng liên tục tăng trong 3 năm qua. Năm 2010: diện tích nuôi gần 25.000 ha, (tăng 30% so với 2009), SL đạt 135.000 tấn (tăng 50% so 2009 - 89.500 tấn). Nuôi tập trung chủ yếu tại Quảng Ninh (gần 4.000 ha) và các tỉnh Trung Bộ, tại các tỉnh Nam bộ (gần 7.000 ha, 28%). Hình thức nuôi: chủ yếu là thâm canh. Năng suất: 8,7 - 13 tấn/ha/vụ (cao nhất là ở Miền Trung). Hiện nay cả nước có 316 trại sản xuất giống tôm chân trắng.
11 tháng đầu năm, Việt Nam đã XK 56.271 tấn tôm chân trắng, trị giá xấp xỉ 370 triệu USD, chiếm 25,7% về khối lượng và 19,4% về giá trị trong tổng XK các sản phẩm tôm và có giá trị XK đứng thứ 2 sau con tôm sú. Dự kiến XK tôm chân trắng cả năm 2010: khoảng 61.000 tấn, trị giá gần 410 triệu USD.
Tôm chân trắng Việt Nam đang được ưa chuộng tại thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. Ở trong nước, nhiều DN đã chuyển sang chế biến tôm chân trắng để giải quyết “bài toán nguyên liệu” và mở rộng thị trường tiêu thụ, khiến giá tôm chân trắng nguyên liệu tăng đáng kể trong năm qua.
2. Vai trò chủ lực của tôm sú, đặc biệt là tôm sú cỡ lớn
Tôm sú vẫn là đối tượng chủ lực quyết định thành công của ngành tôm Việt Nam. Năm 2010, diện tích nuôi tôm sú cả nước đạt 613.718 ha, tăng không đáng kể so với năm trước, tập trung 6 tỉnh ĐB SCL (Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang) chiếm 92% (564.485 ha). Trong đó, diện tích nuôi công nghiệp chỉ chiếm khoảng 10% (gần 63.000 ha). Tổng sản lượng tôm sú nuôi: gần 333.000 tấn (chỉ tăng hơn 4% 2009)
Năm 2010, tiếp tục diễn ra tình trạng thiếu tôm nguyên liệu dẫn tới giá tôm nguyên liệu tăng mạnh, đạt mức giá cao nhất trong vòng 10 năm qua. Tình trạng này đã làm cho một số nhà máy chỉ hoạt động 50-60% công suất, một số khác phải NK nguyên liệu từ các nước trong khu vực như Thái Lan và Inđônêxia.
11 tháng đầu năm, Việt Nam XK 128.926 tấn tôm sú, trị giá 1,304 tỷ USD (tăng 42,4% về KL và 58,8% về GT so với cùng kỳ 2009), chiếm 58% về khối lượng và 68% về giá trị trong tổng XK tôm. Dự kiến, giá trị XK tôm sú cả năm: 141.000 tấn đạt 1,45 tỷ USD.
3. Sự nỗ lực của DN XK tôm trong đa dạng hoá thị trường và sản phẩm
Năm 2010, nhiều thị trường chưa phục hồi hoàn toàn, một số thị trường có sự thay đổi cấu trúc sản phẩm và quốc gia cung cấp. Có nhiều cơ hội thị trường, sự sụt giảm của 1 số nước cung cấp tôm và sự năng động, nỗ lực của các DN tôm Việt Nam, VN đã XK sang 92 thị trường, tăng hơn 10 thị trường so với 2009.
Các DN tôm ngày càng chú trọng đa dạng hoá sản phẩm theo hướng gia tăng giá trị, góp phần làm cho giá trị XK tôm tăng trưởng mạnh hơn khối lượng. Trong XK 11 tháng, khối lượng tôm XK tăng 13%, nhưng giá trị tăng 23,5% so với cùng kỳ 2009. Giá trung bình XK tôm năm nay đạt khoảng 8,7 USD/kg, tăng 8,8% so với 2009. XK sang hầu hết các thị trường đều tăng - chứng tỏ SP tôm VN được đánh giá cao trên thị trường thế giới.
Bên cạnh một số cơ hội & lợi thế thị trường, năm 2010, sự đồng lòng của các DN tôm trong chiến lược sản xuất và giá XK cũng là một trong những yếu tố để con tôm Việt Nam giữ & tăng được giá trên thị trường thế giới, đặc biệt tại các thị trường lớn. Mỹ là thị trường có giá TB cao nhất, đạt 10,6 USD/kg, tăng 16% so với 2009, tiếp đến Nhật Bản và EU. Các thị trường mới cũng có sự phục hồi đáng kể cho giá XK cao như Ôxtrâylia, Canađa và Xingapo (TB từ 8,3 - 10,1 USD/kg). 4. Sự chênh lệch cung - cầu trên thị trường thế giới
Sự cố tràn dầu tại vịnh Mêhicô, sự phục hồi kinh tế của các thị trường chính, tình trạng bệnh dịch khiến giảm mạnh SL tôm nuôi hoặc sự cố ATTP ở một số nước SX tôm chính ở Châu Á - là những yếu tố & cơ hội lớn cho XK TS VN nói chung và tôm nói riêng trong năm 2010 khi lượng cầu đã cải thiện và lớn hơn lượng cung trên thế giới.
XK tôm sang hầu hết các thị trường chính đều tăng trưởng cao cả về khối lượng và giá trị, trong đó thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc - đặc biệt TQ có mức tăng trưởng cao nhất là 54% về giá trị trong 11 tháng đầu năm. Chúng ta chỉ có 2 thị trường bị giảm giá trị NK là Canađa và Philippin. Đến nay, Nhật Bản vẫn là thị trường NK lớn nhất của tôm Việt Nam, tiếp theo là Mỹ và EU.
Thị trường Nhật Bản:
Mặc dù, Nhật có dấu hiệu giảm dần KL & GT nhập khẩu tôm trong 15 năm qua, bên cạnh việc đa dạng hóa sản phẩm và đa dạng nguồn cung. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn là quốc gia có mức tiêu thụ thủy sản trên đầu người lớn nhất thế giới (67 kg/người/năm), và VN đã liên tục đứng đầu về thị phần tôm NK tại Nhật trong vài năm qua, chiếm hơn 20,1% về khối lượng và 20,9% về giá trị trong tổng NK tôm của Nhật Bản. Hiện chúng ta cũng đang gặp sự cạnh tranh mạnh từ Thái Lan và Inđônêxia trong cung cấp SP tôm cho Nhật Bản.
11 tháng đầu năm, Việt Nam XK sang Nhật 57.236 tấn tôm, trị giá 528,127 triệu USD, tăng 8,2% về khối lượng và gần 15% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Thị trường Mỹ:
Tiêu thụ tôm trên mỗi người dân Mỹ tăng nhanh và ngành sản xuất tôm trong nước của Hoa Kỳ chỉ cung cấp khoảng 10% tổng tiêu thụ nội địa đã dẫn đến khối lượng tôm NK vào Mỹ tăng đều trong 20 năm qua.
Việt Nam hiện đứng thứ 4 về giá trị XK tôm sang Mỹ, chiếm tỷ trọng 9,8% trong tổng giá trị tuy chỉ chiếm 8% tổng khối lượng. Giá tôm Việt Nam đạt cao nhất so với mặt bằng chung cho thấy giá trị của tôm sú cỡ lớn so với tôm thẻ của các nước khác.
Đến hết tháng 11/2010, Việt Nam xuất sang Mỹ gần 48.000 tấn tôm trị giá 511,7 triệu USD, tăng 20,3% về khối lượng và 40,3% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Thị trường EU:
Nhu cầu tôm của thị trường EU đã hồi phục trong năm 2010.
Việt Nam hiện đứng thứ 8 trong số các nước XK tôm vào EU, chiếm hơn 5% tổng thị phần. Lợi thế về giá với tôm sú cỡ vừa và lớn so với tôm thẻ cỡ nhỏ và tôm cỡ lớn khác khiến khối lượng XK tôm của Việt Nam sang thị trường này tăng mạnh trong giai đoạn 2003 - 2009, trung bình đạt 16,8%/năm. Đến hết tháng 11/2010, Việt Nam XK 41.800 tấn tôm vào EU trị giá 307 triệu USD, tăng 8,7% về khối lượng và 17,7% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Trong khối thị trường EU, Việt Nam và Thái Lan đang gia tăng thị phần tại Tây Ban Nha. Việt Nam cũng đang cùng Thái Lan và Inđônêxia đẩy mạnh khối lượng XK vào Anh, tại Đức, VN đứng thứ 2 sau Thái Lan.
Dự báo
Ngành tôm trong năm qua cũng đã có nhiều khó khăn: thiếu nguyên liệu, vấn nạn bơm chích tạp chất trong tôm nguyên liệu, thiếu lao động cục bộ, chi phí sản xuất tăng cao (nguyên liệu, điện, chi phí lao động, kiểm nghiệm ..), rào cản thị trường, vấn đề kháng sinh trong tôm nuôi - đặc biệt trifluralin và CAP khiến kiểm soát tại Nhật Bản tăng lên vào cuối năm .
Tuy nhiên, với những nỗ lực của các DN, của ngành và các CQQL Nhà nước, chúng ta sẽ tiếp tục đưa ngành công nghiệp tôm VN phát triển trong năm 2011 và những năm tiếp theo.
Năm 2011, dự báo sẽ có 4 xu hướng sau:
1. Sản lượng tôm SX trong nước sẽ tăng do kết quả đạt được trong XKD năm 2010, sẽ tạo động lực để tăng trưởng sản lượng, đặc biệt là tôm chân trắng - một mặt góp phần đảm bảo nguồn nguyên liệu, ổn định giá nguyên liệu, chủ động hơn trong các xúc tiến HĐ.
2. Xu hướng tăng các liên kết giữa người nuôi và nhà máy CB, xuất phát từ thực tế đặt ra trước các vấn đề hàng đầu về chất lượng, mong muốn & lợi ích của các bên.
3. Xu hướng thị trường: ổn định ở 4 thị trường chính (Nhật, Mỹ, EU, HQ), và gia tăng nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong đó, TQ sẽ thiên về nhập các SP nguyên liệu. Điều này các DN VN cần quan tâm hơn đến: chất lượng SP, thanh toán và đặc biệt là sự lãng phí tài nguyên khi hàm lượng SP GTGT từ tôm XK sang TQ không nhiều.
4. Bên cạnh các cơ hội, các ngưỡng thuận lợi chưa có dấu hiệu nhiều hơn, trong khi vẫn tiếp tục giải quyết nhiều khó khăn của thị trường và SX trong nước như vấn đề lao động, kiểm soát kháng sinh, chi phí đầu vào ..., dự báo: giá trị XK tôm 2011 sẽ tiếp tục giữ ở mức trên 2 tỷ USD như đã có trong 2010, đạt khoảng 2,1 tỷ USD (tăng không đáng kể so với 2010).
Để làm được như vậy trong năm 2011, ngành tôm VN phải tiếp tục và tập trung vào liên kết trong sản xuất để kiểm soát hiệu quả các vấn đề kháng sinh mà nhiều thị trường đang đặt ra như một biện pháp hạn chế, bên cạnh đó đẩy mạnh công tác truy xuất nguồn gốc, phát triển quy hoạch các vùng nuôi an toàn, và cuối cùng là tập trung quảng bá, xây dựng thương hiệu cho tôm Việt Nam.
(LH)