Điều này là sự thật, tôm sống trong môi trường nước ngọt và nước lợ có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Ðặc biệt là tôm sú (Penaeus monodon) và tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) - Ðây chính là kết quả của quá trình nghiên cứu thực tế đối với tôm nuôi của các nhà nuôi trồng thuỷ sản.
Vào đầu năm 1972, trong khi thí nghiệm nuôi tôm càng xanh, ông Wicking đã chuyển một số ấu trùng tôm vào môi trường nuôi có độ mặn là 2 (ppt), trong khi đó cũng giữ lại một số ấu trùng tôm nuôi trong môi trường chuẩn với độ mặn là 15 (ppt). Kết quả nghiên cứu trong vòng 21 ngày cho thấy, các ấu trùng tôm được chuyển sang môi trường nuôi có độ mặn thấp lại có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn so với tôm nuôi trong môi trường có độ mặn tiêu chuẩn là 15 (ppt).
Năm 1976, ông Perdue và ông Nakamura đã thử nghiệm nuôi tôm càng xanh giống ở môi trường nước ngọt trong vòng 3 tuần, sau đó bỏ muối vào môi trường nuôi và điều chỉnh hàm lượng của muối trong phạm vi 2 - 8,5 và 15 %o, đồng thời cũng giữ một số tôm này nuôi trong môi trường nước ngọt. Sau hơn 7 tuần nuôi, kết quả cho thấy: Phần trăm phát triển về trọng lượng và tỷ lệ tăng trưởng cao nhất vẫn là số tôm nuôi trong môi trường nước ngọt và nuôi trong môi trường nước lợ (có hàm lượng muối là 2).
Những kết quả thử nghiệm tương tự đối với một số loài giáp xác đều cho thấy: Tỷ lệ tăng trưởng mạnh nhất vẫn là các loài giáp xác được sống trong môi trường nước ngọt và nước lợ - Ðây chính là kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về môi trường sống của tôm càng xanh và một số loài giáp xác khác, cụ thể là loài tôm sú.
Ba nhà khoa học Saha, Bhattacharyya và Choudhury đã làm thử nghiệm để so sánh, kết quả cho thấy : Sự tăng trưởng của tôm sú sống trong môi trường nước lợ (hàm lượng muối từ 0,16 6,25) và tôm sú sống trong môi trường nước mặn (hạm lượng muối từ 4,6 19,42). Với mật độ nuôi là 10,5 con/m2, sản lượng thu hoạch sau 135 ngày nuôi đạt 1563 kg/ha ở môi trường nước lợ và 1173 kg/ha ở môi trường nước mặn. Cũng theo kết quả nghiên cứu, với mật độ thả nuôi là 16 con/m2 đã thu được 2274kg/ha với môi trường nước lợ và 1974kg/ha với môi trường nước mặn. Rõ ràng, điều này cho thấy tỷ lệ tăng trưởng thực tế (SGR) của tôm nuôi ở môi trường nước có hàm lượng muối thấp cao hơn nhiều (SGR: 21,04 á 21,19) so với tôm nuôi ở môi trường có hàm lượng muối cao (SGR: 19,22 á 19,88). Tóm lại, Tôm được nuôi ở môi trường nước lợ không chỉ có tỷ lệ tăng trưởng cao mà sản lượng cũng cao hơn so với tôm được nuôi trong môi trường nước mặn.
Khái niệm áp suất thẩm thấu cân bằng và tỷ lệ tăng trưởng.
Một số người nuôi thuỷ sản đã xem xét và thấy rằng các động vật thuỷ sinh phát triển rất nhanh trong môi trường có áp suất thẩm thấu cân bằng, đó là trong điều kiện mà môi trường bên ngoài và chất lỏng trong cơ thể của động vật thuỷ sinh ở trạng thái cân bằng. Bởi vì, nếu môi trường sống ở dưới mức bình thường, nhu cầu ôxy của các động vật thuỷ sinh bị thiếu, do đó dẫn đến tình trạng chết tự nhiên của các động vật thuỷ sinh do bị thiếu ôxy. Cũng theo cách xem xét này, nếu không đủ điều kiện áp suất thẩm thấu cân bằng thì các động vật thuỷ sinh cần phải được cung cấp một khối lượng nước lớn mới phù hợp cho sự sống.
Giả thuyết về mức độ tăng trưởng tối đa của các loài cá trong môi trường có áp suất thẩm thấu cân bằng đã được kiểm chứng ở một số loài cá. Thí nghiệm được tiến hành đối với cá hồi bạc và cá hồi đỏ cùng sống chung trong cùng môi trường, sau một thời gian nghiên cứu, kết quả cho thấy cá sống trong môi trường nước mặn phát triển nhanh hơn trong môi trường nước ngọt. Có thể giải thích là, sống trong môi trường có hàm lượng muối cao, cá không phải tiêu tốn năng lượng cho quá trình thẩm thấu, nên chúng lớn nhanh hơn, điều đó tạo thuận lợi cho sự phát triển nhanh của cá.
Trong khi lý thuyết về sự tăng trưởng tối đa ở môi trường có áp suất thẩm thấu cân bằng có thể đúng đối với các loài cá, nhưng điều này không hoàn toàn đúng đối với tôm nước ngọt và tôm nước mặn. Ví dụ đối với tôm càng xanh, khi môi trường có độ mặn khoảng từ 17 18 (ppt) thì chúng đạt áp suất thẩm thấu cân bằng, trong khi đó chúng lại phát triển nhanh nhất trong môi trường nước hoàn toàn ngọt và nước có độ mặn thấp. Khi tiến hành thử nghiệm đối với tôm sú, chúng ta vẫn thu được kết quả tương tự. Vậy làm thế nào để giải thích được hiện tượng tự nhiên này?
Quá trình lột xác và tăng trưởng ở giáp xác.
Quá trình tăng trưởng ở giáp xác bị hạn chế bởi lớp vỏ cứng kitin bên ngoài. Sự tăng trưởng chỉ xảy ra định kỳ trong quá trình lột xác, khi lớp vỏ ngoài không còn phù hợp, nó sẽ được thay thế bằng một lớp vỏ mới. Khả năng thẩm thấu bị giảm đi trong qúa trình lột xác, trong thời gian này con vật thẩm thấu một khối lượng lớn nước vào cơ thể khi lớp biểu bì mới vẫn còn mềm và làm tăng lượng chất lỏng trong cơ thể. Từ đó, lớp biểu bì bị kéo căng ra và gia tăng kích cỡ của tôm. Lớp biểu bì mới này dần cứng lên bởi khối lượng nước được thay thế bằng các tế bào mô. Bằng cách này, sự gia tăng về kích cỡ cũng như về trong lượng của loài giáp xác đều được thực hiện trong và sau thời gian chúng lột xác.
Chính bởi khả năng thẩm thấu lớn mà tôm sống trong môi trường nước ngọt và nước lợ có thể lấy một lượng nước lớn vào cơ thể trong khi lột xác, phát triển kích cỡ và trọng lượng nhiều hơn so với khi sống trong môi trường có độ mặn cao. Thực tế cho thấy, các tế bào mô của tôm đã trưởng thành sống trong môi trường nước ngọt chứa nhiều nước hơn (từ 4-5%) so với tôm sống trong môi trường nước mặn (hàm lượng muối từ 15 ppt trở lên). Ðây chính là lời giải thích cho câu hỏi: Tại sao tôm nuôi trong môi trường nước ngọt và nước lợ tăng trưởng nhanh hơn rất nhiều so với tôm nuôi trong môi trường nước mặn.
Hương Linh dịch từ International No4/2003 (Nguồn vietlinh)