General Information

Author:
Issued date: 08/08/2008
Issued by:

Content


Hiện trạng chất lượng môi trường nước vùng ven bờ phía Tây Vịnh Bắc Bộ (Phần 2)

1. Mở đầu

Những năm qua, lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) đã có sự tăng trưởng vượt bậc, đặc biệt là vùng ven biển (cả nước lợ và nước mặn). Bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội đã đạt được, nghề nuôi thuỷ sản đã và đang phải đối mặt với những áp lực môi trường (trong đó có môi trường biển). Nhiệm vụ “Nghiên cứu các giải pháp quản lý môi trường, sản xuất thuỷ sản bền vững” của bộ thuỷ sản được triển khai từ năm 2001, với hàng loạt các đề tài, chương trình… hoạt động nhằm hướng tới mục tiêu bảo vệ môi trường các khu vực sản xuất thuỷ sản. Viện Nghiên cúu Hải sản là một trong những đơn vị được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ quan trắc, cảnh báo chất lượng môi trường các vùng cửa sông, ven biển vịnh Bắc Bộ nhằm đáp ứng kịp thời các thông tin về diễn biến chất lượng môi trường các vùng nuôi hải sản biển.

Vịnh Bắc bộ là một vùng biển giàu có về tiềm năng phát triển kinh tế biển, đồng thời đây cũng là khu vực nhạy cảm luôn tiềm ẩn những nguy cơ làm suy thoái môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến nguồn lợi hải sản. Thông qua hoạt động quan trắc, nguồn số liệu về chất lượng môi trường các vùng trọng điểm phát triển nuôi trồng thuỷ sản đã được thu thập thường xuyên, liên tục một cách có hệ thống. Nội dung quan trắc hàng năm bao gồm đầy đủ các yếu tố môi trường (khí tượng - thuỷ văn, nước, trầm tích và sinh vật), nhưng báo cáo này chỉ dừng lại ở việc phân tích đặc điểm phân bố, biến động hàm lượng một số chỉ tiêu môi trường nước cơ bản, có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống thuỷ sinh vật. Thực tế, xu thế chất lượng môi trường nước vùng ven biển ngày một giảm sút đã thể hiện một cách rõ nét (về phạm vi, đối tượng,…). Điều đó chứng tỏ: nhiệm vụ quan trắc cảnh báo chất lượng môi trường biển do ngành Thuỷ sản khởi xướng và chỉ đạo thực hiện đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sản xuất thuỷ sản (nói riêng) và công tác quản lý, khai thác và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên biển.

2. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu

2.1. Tài liệu

Báo cáo được tập hợp từ số liệu quan trắc qua các năm từ 2001 đến 2003. Số lượt trạm (điểm) quan trắc cố định mỗi năm có khác nhau.

Năm 2001: số trạm quan trắc là 17 trạm, quan trắc hai mùa

Năm 2002: số trạm quan trắc là 17 trạm, quan trắc hai trạm nền N1, N2

Năm 2003: số trạm quan trắc là 22 trạm, quan trắc hai trạm nề N

Trên cơ sở các nghiên cứu để hình thành hệ thống trạm (điểm) quan trắc (năm 2002), tạm chia khu vực ven biển phía tây vịnh Bắc Bộ thành ba vùng. Do đó việc phân tích số liệu để đánh giá diễn biến chất lượng môi trường cũng được thực hiện theo vùng. Tổng số lượng trạm quan trắc trong ba năm ở mỗi vùng như sau:

- Vùng Đông Bắc (ĐB - từ Móng Cái đến Đồ Sơn): có 19 lượt trạm quan trắc

- Vùng cửa sông Hồng (CSH - từ Đồ Sơn đến Lạch Trường): có 16 lượt trạm

- Vùng bắc Trung Bộ (BTB - Lạch Trường đến đèo Hải Vân): có 21 lượt trạm

Sơ đồ hệ thống trạm quan trắc môi trường được thể hiện trong hình 1.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp quan trắc và phân tích môi trường được tiến hành theo “Quy định về phương pháp quan trắc, phân tích môi trường và quản lý số liệu” của Cục Môi trường - Bộ KHCN và Môi trường; Quy trình, quy phạm nghiên cứu biển của UBKHKT Nhà nước và Bộ Thuỷ sản ban hành, đồng thời tham khảo các phương pháp phân tích, bảo quản và xử lý mẫu….từ bộ tiêu chuẩn Standard methods (Hoa Kỳ) để đảm bảo độ tin cậy của các thông tin và số liệu thu được.

Các kết quả quan trắc, phân tích môi trường trường được tập hợp, xử lý bằng phương pháp thống kê, sử dụng các phân mềm Excel, Mapinfor 6.0, Vertical 2.0 để tính toán và biểu diễn các dạng phân bố số liệu thưo không gian. Đánh giá hiện trạng và diễn biến chất lượng môi trường căn cứ vào giá trị giới hạn cho phép (GHCP)- áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam (đối với nước biển ven bờ đối với NTTS, TCVN – 5943 - 1995).

Do các điều kiện khách quan, việc tiến hành quan trắc chất lượng môi trường vùng ven biển phía tây vịnh Bắc Bộ hầu hết được thực hiện vào giai đoạn chuyển tiếp giữa hai mùa chính trong năm (mùa mưa và mùa khô). Do đó, việc đánh giá diễn biến chất lượng môi trường chỉ tập trung phân tích, xử lý số liệu ở giai đoạn tháng 10, tháng 11 của các năm.

Hình 1. Sơ đồ hệ thống mạng trạm quan trắc vùng biển ven bờ phía tây vịnh Bắc Bộ năm 2001 - 2003

Trần Lưu Khanh
Trần Quang Thư

Trích: Tuyển tập các công trình nghiên cứu "Nghề cá biển", Viện Nghiên cứu Hải sản, Tập 3, 2005


Download