Vườn thú quốc gia của Smithsonian - National Zoo gần đây đã có được 12.000 ấu trùng san hô sừng do các nhà khoa học của Vườn thú quốc gia thu thập tại Puerto Rico—đây là một phần của chương trình hợp tác quốc tế nhằm nuôi trồng các loài đang bị đe dọa. Các nhà khoa học của vườn thú quốc gia hy vọng một ngày nào đó họ có thể đưa các loài này trở về môi trường biển hoang dã khi chúng trưởng thành.
Vào tháng 8, nhà khoa học đại diện của vườn thú, Tiến sỹ Mary Hagedorn và chuyên gia nuôi dưỡng động vật không xương sống Mike Henley đã tới Puerto Rico cùng với các nhà khoa học hải dương tham gia chương trình SECORE (Sinh sản san hô giới tính - SExual COral REproduction) để thu thập và thụ tinh nhân tạo san hô. Hagedorn là nhà khoa học tiên phong thử nghiệm bảo tồn tinh trùng và trứng san hô (làm đông lạnh, lưu giữ và làm ấm trở lại). Phối hợp với SECORE, bà Mary Hagedorn đang cố gắng tạo ra một ngân hàng nguồn gene, ngân hàng này sẽ bảo tồn đang dạng gene của các loài san hô.
Hagedorn, Henley và nhóm nghiên cứu đã dùng lưới thu các tế bào sinh dục của san hô khi lặn ban đêm và chuyển chúng về phòng thí nghiệm đặt trên bờ biển để nghiên cứu và thực hiện thụ tinh nhân tạo – các nhà nghiên cứu thường làm việc đến tận 3 giờ sáng. Sử dụng một loại ống nhựa được thiết kế đặc hiệu dài 75 feet, ống này có thể uốn cong để đặt vòng quanh các rạn san hô mà không gây hư hại, nhóm nghiên cứu đã tạo ra hệ thống dòng nước chảy cho phép nước từ đại dương chảy liên tục vào và ra khỏi khu vực lưu giữ ấu trùng san hô nằm trong phòng thí nghiệm bên bờ biển. Giữ cho nước sạch và nhiện độ ổn định là một yếu tố quan trọng đối với san hô là loài phát triển trong môi trường ổn định.
"Bảo tồn các loài sống dưới nước và rất nhạy cảm luôn là một thử thách lớn" bà Hagedorn nói "chúng tôi đã đạt được một kết quả đánh dấu những bước tiến quan trọng vào năm nay như một số hiểu biết về quá trình nuôi ấu trùng và chúng tôi đã có thể bảo quản lạnh tinh trùng của loài san hô đang bị đe dọa. Với những nghiên cứu bổ sung, công nghệ này có thể trở thành một công cụ hữu ích cho việc tái tạo các quần thể san hô lành mạnh tại vùng biển."
Trong khi đó, tại Khu trưng bày động vật không xương sống của Vườn thú, Mike Henley đã và đang chăm sóc 12000 ấu trùng san hô để chúng ổn định trong một bể được thiết kế đặc biệt. Bể nước mặn 90-gallon có nguồn sáng mạnh và thiết bị tạo sóng có thể điều chỉnh để tạo môi trường luôn có chuyển động của nước biển nơi các loài san hô bản địa vùng sinh cảnh Caribbean sinh sống.
Từ 12,000 ấu trùng ban đầu, 158 ấu trùng đã định cư trên các tấm gạch lát được thiết kế đặc biệt và tạo thành san hô đa bào polyps kích thước vài millimeter, là loại san hô có thể phát triển rộng 10 feet. Henley sẽ tiếp tục đếm cá thể san hô trong suốt những tháng tới. Tỷ lệ phần trăm rất nhỏ san hô phát triển thành polyp cho thấy sự khó khăn và phức tập của việc nuôi nhân tạo một loài rất dễ bị tổn thương.
"Chúng tôi hy vọng có thể thiết lập quần thể nhân tạo san hô sừng để có thể đưa trở lại môi trường tự nhiên," Henley cho biết. "Nếu thu mẫu năm nay không đạt tiêu chuẩn, hy vọng những lần thu mẫu trong tương lai của SECORE sẽ có thể đưa trở lại tự nhiên"
Các rạn san hô đang chết dần do ảnh hưởng của con người. Tại các quần thể san hô sừng (Acropora palmate) rộng lớn vùng Caribbean là những quẩn thể chính và về mặt sinh thái chúng là loài san hô tạo các rạn quan trọng, 90 đến 99% bị suy giảm kể từ những năm 80. Vì thế loài san hô này được đưa vào danh sách loài bị đe dọa theo quy định của Bộ luật về các loài bị đe dọa.
Như nhiều chuyên gia về các loài thủy cung đã biết, san hô có thể dễ dàng nuôi trong môi trường nhân tạo – các quần thể mới có thể phát triển từ các mảnh vỡ của cụm san hô bố mẹ. Các cụm san hô mới này tuy nhiên là các cá thể clone có cấu tạo gene giống hệt bố mẹ.
Vì lý do này, nghiên cứu của vườn thú quốc gia về thụ tinh nhân tạo và nuôi dưỡng san hô nằm trong khuôn khổ chương trình SECORE là vô cùng quan trọng trong cuộc chiến trống lại sự tuyệt chủng của san hô. Đa dạng gene là chìa khóa để lấy giống bất kỳ loài nào để sau đó đưa trở lại môi trường hoang dã. Một quần thể càng đa dạng về gene thì cơ hội sống sót sau những biến cố khác nhau về môi trường của nó càng lớn.
Theo ScienceDaily,www.fistenet.gov.vn