(ĐCSVN) - Đất nước ta như một con tàu trên biển, có hơn 3260 km bờ biển, kết hợp với địa lý thuận lợi nên được coi là quốc gia tiềm năng để phát triển kinh tế biển như hàng hải, du lịch, dịch vụ, khai thác hải sản, dầu, khí. Nhưng biển đang ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng, đó là một thực tế. Quản lý, bảo vệ môi trường biển trước một cảnh báo nghiêm khắc đang cần một tầm nhìn mới.
Biển không chỉ có giàu và đẹp.
Khi nói về tiềm năng của biển,người Việt Nam ta có câu “đất nước ta biển bạc rừng vàng”. Biển Đông Việt Nam có diện tích 3447000km2, có độ sâu trung bình -1140m, nơi sâu nhất 5416m, thềm lục địa có độ sâu chưa đến 200m chiếm tới 50%. Tài nguyên của biển rất đa dạng, phong phú như: một kho chứa hoá chất vô tận trong nước, dưới đáy biển, trong lòng đất, trong đó nhiên liệu hoá thạch chủ yếu là dầu và khí, nước biển chứa một kho muối khổng lồ, iốt, nước khoáng, hơn 60 nguyên tố hoá học khác nhau. Biển còn có nguồn năng lượng sạch có thể khai thác được như gió, nước, nhiệt độ nước biển, các dòng hải lưu. Nguồn sinh vật rất lớn, đủ các loài động, thực vật, vi sinh vật. Trữ lượng hải sản ở biển Đông thuộc vùng biển nước ta có thể khai thác trên 1 triệu tấn năm.
Không ai nghi ngờ lợi ích to lớn của kinh tế biển, góp vào sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước.Nhưng muốn khai thác tiềm năng của biển theo những Mục tiêu chiến lược biển Việt Nam chúng ta phải bảo vệ biển, bới hàng ngày biển đang bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng từ những hoạt động vô ý thức và có ý thức của con người. Mội trường biển đang kêu cứu.
Những tác nhân gây ô nhiễm môi trường biển.
Nước từ những con suối, lạch sông đổ ra sông lớn rồi đổ ra biển. Nước ta đã có gần chục con sông “chết”, điển hình như sông Thị Vải, sông Đồng Nai, sông Đáy, sông Cầu, sông Nhuệ... Các nguồn ô nhiễm từ lục địa theo sông mang ra biển như dầu thải, nước thải chưa xử lý, hoá chất, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, phân bón, chất thải công nghiệp,nông nghiệp, làng nghề, thuốc súng,chất phóng xạ, các chất thải rắn như đất cát, rác, phế thải vật liệu xây dựng... Tất cả đổ ra biển. Có những loại không phân huỷ được đọng lại ở ven bờ, chìm xuống đáy biển, những chất phân huỷ thì hoà tan trong toàn khối nước biển.
Những công trình trên biển ngày càng mọc thêm nhiều. Sự khan hiếm tài nguyên trên lục địa nên con người đi ra biển để khai khoáng, đóng tàu, khai thác dầu, khí... những hoạt động ấy đều có tác động đến môi trường. Việc gia công xây lắp các công trình giàn khoan, các phương tiện vận chuyển, vật liệu thải loại khi xây lắp công trình ...tất cả tác động mạnh đến hệ sinh thái biển, chất lượng nước biển, trầm tích biển. Những công trình cảng biển ngày một nhiều thêm. Hầu hết các công trình cảng và hoạt động của cảng đều tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên, như mất các nơi sinh cư do lấy đất xây dựng, ô nhiễm nước, đất, không khí, tiếng ồn...trong khu vực cảng và phụ cận. Các công trình sản xuất, nhà máy đóng tàu biển, các công trình đảm bảo du lịch, và rất nhiều các hoạt động khác đều tác động xấu đến môi trường tự niên của biển.
Vận tải biển là một lợi thế lớn về kinh tế, đang phát triển đáng kể, nhờ vào ưu thế vượt trội của nó so với các loại hình vận tải khác, nhưng cũng tác động xấu đến môi trường. Từ việc xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở giao thông, nạo vét luồng lạch, dẫn đến phá hoại sinh thái vùng cửa sông, ven biển ngập mặn, vùng đất chua phèn, tạo nên một sự đảo lộn, cùng với việc đổ phế thải dầu, mỡ. Hệ thống đường thuỷ phát triển, phương tiện vận tải ngày càng nhiều, lượng dầu mỡ gây ô nhiễm tới 50% nguồn gây ô nhiễm.
Con người quan niệm nhờ có nước mà làm sạch được tất cả, nên chính con người đã biến biển thành thùng rác. Con người đổ xuống biển tất cả rác thải, bất kể những công ước của cộng đồng Quốc tế đã ngăn cấm nhưchất thải phóng xạ của các quốc gia đổ ra biển, chôn xuống biển. Biển mênh mông và sâu thẳm, nước có thể làm sạch được nhiều chất ô nhiễm do người đổ vào nhưng nếu con người không ngừng đổ ra biển tất cả chất thải chưa qua xử lý, số lượng ngày càng lớn thì biển sẽ quá tải. Con người coi biển là thùng rác, đến lúc nào đó sự ô nhiễm quá mức sẽ quay lại gây tác hại cho con người.
Cần một tầm nhìn mới.
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 xác định kinh tế biển là mũi nhọn, nhằm đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực, công nghệ cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Nhưng chỉ có thể phát triển bền vững khi quản lý giữ gìn, bảo vệ tốt môi trường biển. Khai thác, sử dụng tài nguyên biển phải đi cùng bảo vệ, tái tạo để tránh ô nhiễm môi trường cũng như sự cố thiên nhiên.
Mặc dù còn nhiều thông số còn nằm trong giới hạn cho phép nhưng môi trường biển đang suy thoái, kết hợp ô nhiễm bụi, tiếng ồn. Để dẫn đến tình trạng biển bị ô nhiễm có nhiều nguyên nhân về nhận thức và tầm nhìn, nên kiểm tra, kiểm soát, phòng chống chưa đúng với vị trí,quan tâm chưa đúng mức, quản lý chưa chặt chẽ của các cấp, các ngành, các địa phương, từ lãnh đạo, chính quyền đến người dân. Hệ thống luật pháp của nước ta chưa đầy đủ các tiêu chuẩn về môi trường biển, làm cơ sở hành lang pháp lý để quy định và xét xử các vi phạm môi trường biển.Nhận thức chưa đúng tầm nên đầu tư mọi mặt từ nguồn lực, cơ sở vật chất, mực độ hiện đại chưa đáp ứng yêu cầu quan trắc, thẩm định, giúp cho công tác quản lý môi trường biển. Với người dân vẫn coi biển là thùng rác khổng lồ và vô tận, nước biển có thể rửa sạch mọi thứ nên ý thức tự giác giữ gìn môi trường rất kém.
Nhà nước, các cơ quan chức năng cần nhanh chóng đưa các nội dung luật bảo vệ môi trường về biển thành những nội dung dưới luật cụ thể, phù hợp thực tế, có tính khả thi. Triển khai rộng rãi các chủ trương xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường biển để huy động các nguồn lực cho nhiệm vụ này. Nghiên cứu chính sách thuế môi trường, về chế độ đãi ngộ cho từng đối tượng, từng công việc cụ thể. Tăng cường hợp tác quốc tế để giám sát các nguồn thải ra biển từ những quốc gia khác. Tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế cho hoạt động nghiên cứu giám sát quản lý về ô nhiễm biển, cùng bảo vệ môi trường biển.
Bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường biển là vấn đề sống còn và cấp bách vì môi trường ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đến đời sống, sản xuất, sự phát triển tồn tại của từng quốc gia, dân tộc. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, xem kinh tế biển là mũi nhọn,chúng ta cần coi trọng công tác bảo vệ môi trường biển ở một tầm nhìn mới, vì đầu tư cho môi trường chính là đầu tư cho tương lai./.
Nguồn: www.cp.org.vn